Lâm Đồng – vùng đất ngàn hoa
Theo Cổng thông tin điện tử UBND tỉnh Lâm Đồng, vùng đất Lâm Đồng ngày nay từ lâu đã có con người sinh sống, mà hậu duệ của họ cho đến lúc bấy giờ là các cộng đồng người Mạ, Cơ Ho, MNông, Chu Ru, Rắc Lây,…
Lâm Đồng dưới thời phong kiến nằm trong vùng Sơn Động, Man Động (Tây Nguyên) hoang sơ. Sách Đại Nam nhất thống chí biên soạn năm 1865 dưới Triều Nguyễn, các tác giả đã khảo cứu vùng đất Lâm Đồng: “Phía Tây vùng thượng du có sông Dương Dã, sông không sâu mà rộng, có nhiều cá sấu.” Sông Dương Dã chính là sông Đạ Dâng ngày nay – đây là lần đầu tiên mảnh đất này được định vị trên địa chí nước nhà.

Người dân Lâm Đồng ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất rau. Ảnh: Báo Lâm Đồng.
Trong hành trình khám phá của người Pháp, vào ngày 21/6/1893, bác sỹ A.Yersin đã đặt chân đến cao nguyên Lâm Viên, vùng Đankia, ông vừa thám hiểm, vừa ghi chép tỉ mỉ: “Cảm tưởng của tôi thật sống động khi từ rừng thông ra, tôi đặt chân lên bờ cao nguyên rộng lớn, trơ trụi và mấp mô, chế ngự bởi 3 đỉnh núi Lang Bian. Những gợn sóng của nó làm tôi nhớ lại mặt biển bị dày vò do một đợt sóng vĩ đại. Sự mát lành của khí trời làm tôi quên đi mệt nhọc”.
Ngày 1/11/1899, chính quyền Pháp lập tỉnh Đồng Nai Thượng, tỉnh lỵ đặt tại Di Linh (Djiring). Năm 1903, Pháp lại bãi bỏ tỉnh Đồng Nai Thượng, chuyển thành đại lý hành chính Di Linh, do đại diện của Công sứ Bình Thuận cai trị.
Năm 1913, nhập đại lý Đà Lạt với đại lý Di Linh, gọi chung là đại lý Di Linh và vẫn thuộc tỉnh Bình Thuận.
Ngày 6/1/1916, tỉnh Lâm Viên được thành lập, gồm đại lý Đà Lạt mới lập lại và đại lý Di Linh, tách từ tỉnh Bình Thuận. Tỉnh lỵ đặt tại Đà Lạt. Tỉnh Lâm Viên còn được gọi là Langbiang hay Lâm Biên.
Ngày 31/10/1920, xóa bỏ tỉnh Lâm Viên, một phần lập ra thành phố Đà Lạt, phần còn lại lập lại tỉnh Đồng Nai Thượng, tỉnh lỵ đặt tại Di Linh.
Năm 1928, chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng về Đà Lạt. Ngày 8/1/1941, lập lại tỉnh Lâm Viên, tỉnh lỵ đặt tại Đà Lạt. Tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng chuyển về Di Linh.
Ngày 19/5/1958, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng, đồng thời tách một phần đất sáp nhập với thành phố Đà Lạt, thành lập tỉnh Tuyên Đức.
Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nhập tỉnh Lâm Viên với tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng. Như vậy tỉnh Lâm Đồng do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt bao gồm 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức do Việt Nam Cộng hòa đặt.
Tháng 2/1976, sáp nhập tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Tuyên Đức thành tỉnh Lâm Đồng mới.
Từ những năm 1960, Lâm Đồng đã nổi lên là một trung tâm phát triển nông nghiệp ở Tây Nguyên. Theo số liệu công bố, năm 2024, diện tích nông nghiệp công nghệ cao theo tiêu chí mới toàn tỉnh Lâm Đồng đạt hơn 69.600 ha, chiếm 21,2% diện tích canh tác, tăng 2.764 ha so với năm 2023; trong đó, diện tích sản xuất ứng dụng công nghệ thông minh là 730 ha.
Đồng thời, toàn tỉnh hình thành thêm 21 chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, nâng tổng số chuỗi toàn tỉnh lên 255 chuỗi, với hơn 31.900 hộ tham gia. Theo đánh giá, giá trị sản xuất khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tại Lâm Đồng đạt 22.115 tỷ đồng, tăng 4,19% so với năm 2023, đóng góp 1,51 điểm phần trăm trong mức tăng chung GRDP của tỉnh.
Đắk Nông, trung tâm của những cây trồng đặc sản
Theo Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Đắk Nông, Đắk Nông là vùng đất cổ, nằm trên cao nguyên M’Nông, phía Tây Nam vùng Tây nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn, có độ cao trung bình từ 600 – 700m, có nơi lên đến 1.970m so với mực nước biển. Là nơi sinh sống lâu đời của các dân tộc bản địa như M’Nông, Mạ, Ê đê …, theo chế độ cộng đồng, thị tộc, bộ lạc, trải dài trên một địa bàn rộng lớn.

Nông dân Đắk Nông thu hoạch sầu riêng. Ảnh: T.L
Do vị trí địa lý, vùng đất Đăk Nông nói riêng, vùng đất Tây Nguyên nói chung, nằm ở ngã ba của các quốc gia Đông Dương, luôn chịu sự tranh chấp của nhiều thế lực bên ngoài với các tộc người bản địa hoặc giữa các thế lực xâm lược với nhau. Vì vậy, vùng đất này luôn chịu sự xáo trộn về ranh giới địa lý hành chính.
Từ năm 1893, triều đình nhà Nguyễn buộc phải chấp nhận để Pháp toàn quyền cai trị vùng cao nguyên Trung phần, Đăk Nông trở thành vùng đất thuộc quyền cai trị trực tiếp của thực dân Pháp.
Không chịu khuất phục dưới ách thống trị của thực dân, các dân tộc Tây Nguyên nói chung, Đăk Nông nói riêng đã vùng lên, chống thực dân xâm lược.
Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định khu vực Tây Nguyên, thực dân Pháp đã từng bước thiết lập hệ thống chính quyền tay sai thực dân trên địa bàn Đắk Nông để kiểm soát dân chúng, tập trung ở Đắk Mil, Đắk Song.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) Đăk Nông là vùng địch tạm chiếm đóng. Đồng bào dân tộc M’Nông, Mạ… với truyền thống kiên cường, anh dũng trong đấu tranh chống ngoại xâm đã được sớm giác ngộ và đi theo cách mạng.
Tháng 1/1959, chính quyền Sài Gòn cắt một phần phía Tây của tỉnh Đắk Lắk, một phần quận Kiến Hòa của Thủ Dầu Một để thành lập tỉnh Quảng Đức.
Địa giới hành chính tỉnh Quảng Đức, về cơ bản giống như địa giới tỉnh Đắk Nông ngày nay, được chia làm 3 quận: Quận Đức Lập, quận Kiến Đức, quận Khiêm Đức và khu hành chính Đức Xuyên.
Để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chiến lược và điều kiện chiến tranh, tháng 12/1960, Trung ương đã quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức (lấy mật danh là B4), thuộc Liên tỉnh IV, do Liên khu V trực tiếp chỉ đạo; giữa năm 1961, tỉnh Quảng Đức do khu VI trực tiếp chỉ đạo.
Đầu năm 1962, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, Trung ương quyết định giải thể tỉnh Quảng Đức, chuyển Đức Lập, Đức Xuyên nhập về tỉnh Đắk Lắk, Kiến Đức nhập về tỉnh Phước Long, Khiêm Đức nhập về tỉnh Lâm Đồng.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 5/1975, thực hiện chủ trương của Trung ương, tỉnh Quảng Đức được thành lập lại, tháng 11/1975, tỉnh Quảng Đức sáp nhập vào tỉnh Đắk Lắk.
Từ ngày 01/01/2004, tỉnh Đắk Nông được tái lập theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội trên cơ sở chia tách tỉnh Đắk Lắk.
Ngày nay, tỉnh Đắk Nông hứa hẹn sẽ trở thành vùng trọng điểm về phát triển một số ngành hàng cây ăn quả đặc sản (bơ, sầu riêng, xoài, mít, mắc ca, chanh dây,…), ngành hàng rau củ quả và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đồng thời, Đắk Nông còn nhiều dư địa để phát triển chế biến, dịch vụ logicstic và liên kết vùng.
Tỉnh cũng đã công nhận được 4 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với quy mô 2.423 ha với các loại cây chủ lực gồm hồ tiêu, cà phê, lúa; công nhận 2 doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao.
Toàn tỉnh hiện có gần 400 trang trại chăn nuôi, đã hình thành được khoảng 7 chuỗi liên kết tạo đầu ra sản phẩm ổn định, hiệu quả kinh tế khá cao, góp phần nâng cao hiệu quả, giảm được nhiều chi phí sản xuất và nâng cao được năng suất, chất lượng sản phẩm nông sản.
Năm 2024, người dân Đắk Nông sản xuất được gần 79.900ha cây trồng ngắn ngày; 235.200ha cây công nghiệp, cây lâu năm.
Tỉnh có đàn gia súc, gia cầm trên 3,7 triệu con. Chương trình OCOP đạt nhiều kết quả. Toàn tỉnh hiện có 143 sản phẩm OCOP gồm: 20 sản phẩm đạt 4 sao, còn lại là 3 sao.
Năm 2024, ngành Nông nghiệp Đắk Nông đạt 100% kế hoạch đề ra. Trong đó, tốc độ tăng trưởng ngành đạt 5,34%; GRDP ngành nông, lâm, thủy sản đạt 25.696 tỷ đồng.
Nguồn: https://danviet.vn/mot-tinh-tay-nguyen-tung-duoc-sap-nhap-voi-tinh-lam-dong-dak-lak-nay-trong-toan-cay-dac-san-thu-ve-25696-ty-dong-d1320738.html