Về việc sáp nhập tỉnh Thái Bình với tỉnh Hưng Yên để thành một tỉnh mới, tỉnh mới dự kiến mang tên Hưng Yên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy của Hưng Yên, Thái Bình vừa tổ chức Hội nghị làm việc thảo luận Đề án hợp nhất hai tỉnh và Đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã thuộc hai tỉnh vào chiều ngày 18/4.
Theo dự thảo đề án sắp xếp, phương án, lựa chọn tên gọi và trung tâm hành chính-chính trị của đơn vị hành chính cấp tỉnh sau sắp xếp được đề xuất tên là tỉnh Hưng Yên, trụ sở trung tâm hành chính-chính trị của tỉnh Hưng Yên mới tại tỉnh Hưng Yên hiện nay.
Vùng đất cổ xưa, cái nôi của văn minh lúa nước Việt Nam

Cả Hưng Yên và Thái Bình đều là những vùng đất cổ xưa, có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, nơi người Việt đã sinh sống từ rất sớm.
Vùng đất Hưng Yên ngày nay đã có dấu vết cư trú của con người từ thời các vua Hùng dựng nước, thuộc bộ Dương Tuyền. Qua các thời kỳ lịch sử, Hưng Yên có nhiều tên gọi và sự thay đổi về mặt hành chính.
Thời Bắc thuộc, vùng đất Hưng Yên ngày nay thuộc đất Sơn Nam. Đến thời Ngô Quyền thuộc châu Đằng, đời Tiền Lê đổi thành phủ Thái Bình (lưu ý đây là tên gọi một đơn vị hành chính thời đó, khác với tỉnh Thái Bình ngày nay).
Thời Lý – Trần là các lộ Long Hưng, Khoái. Đến thời nhà Lê, thuộc Nam đạo rồi đạo Thiên Trường. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), tỉnh Hưng Yên chính thức được thành lập.

Đền Mẫu linh thiêng (Hoa Dương Linh Từ) hàng trăm năm nay vẫn nguyên vẹn vẻ đẹp trong 16 di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến (tỉnh Hưng Yên). Ảnh tư liệu.

Vùng đất Thái Bình ngày nay, vào thời Bắc thuộc, thuộc hương Đa Cương của quận Giao Chỉ.
Đến thời Hậu Lê, vùng đất Thái Bình ngày nay thuộc trấn Sơn Nam. Năm 1832, vua Minh Mạng cắt hai phủ Thái Bình, Kiến Xương nhập vào tỉnh Nam Định, nhập phủ Tiên Hưng vào tỉnh Hưng Yên.
Ngày 21 tháng 3 năm 1890, tỉnh Thái Bình chính thức được thành lập, bao gồm các phần đất từ Nam Định và Hưng Yên.
Tương tự Hưng Yên, Thái Bình cũng là một vùng đất cổ, có lịch sử khai phá và dựng cư lâu đời của người Việt. Vị trí địa lý ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng màu mỡ đã tạo điều kiện cho sự sinh sống và phát triển của cộng đồng người Việt từ xa xưa.

Cầu Bo tỉnh Thái Bình năm 1963. Ảnh: Tư liệu.
Cả hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình đều nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi được coi là một trong những cái nôi của nền văn minh lúa nước Việt Nam.
Các di chỉ khảo cổ, các truyền thuyết và các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần còn lưu giữ đến ngày nay là minh chứng rõ ràng cho sự sinh sống lâu đời của người Việt trên mảnh đất này.

Những làng cổ như làng Nôm ở Hưng Yên hay làng Mẹo và An Cố ở Thái Bình càng khẳng định thêm bề dày lịch sử và văn hóa của hai vùng đất này.
Sau sáp nhập, tỉnh Hưng Yên có 2 làng cổ nổi tiếng nhất Việt Nam
Là vùng đất cổ với bề dày văn hóa lâu đời, sau sáp nhập 2 tỉnh Hưng Yên và Thái Bình, tỉnh mới dự kiến mang tên Hưng Yên sẽ mang trong mình tất cả những di sản văn hóa của 2 địa phương.
Một trong các di sản văn hóa truyền thống của tỉnh mới Hưng Yên là các làng cổ. Tỉnh mới Hưng Yên sẽ có ít nhất 2 làng cổ nổi tiếng Việt Nam. Đó là làng Nôm ở xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên hiện nay; làng Mẹo hay còn gọi là làng Phương La ở xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình hiện nay.
Làng Mẹo, nghề dệt khiến dân giàu có, là làng tỷ phú Thái Bình
Làng Mẹo, hay còn gọi là làng Phương La thuộc xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, có một lịch sử hình thành và phát triển rất đặc biệt.
Tên gọi gốc của làng là Ứng Mão, mang ý nghĩa là ngôi sao Mão, tượng trưng cho sự giàu có. Tuy nhiên, do âm đọc trại đi, người dân quen gọi là làng Mẹo, và cái tên này cũng mang ý nghĩa là sự tinh nhanh, lắm mưu mẹo trong kinh doanh.
Lịch sử của làng Mẹo gắn liền với nghề dệt truyền thống ở mảnh đất này. Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, nghề dệt ở Phương La đã có từ khoảng 700 năm trước, có lẽ từ thời Trần.

Tương truyền rằng cụ Trần Hoằng Nghị đã truyền dạy cho dân làng nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải. Nhờ nghề dệt, đời sống của người dân làng Mẹo từ xưa đã khấm khá hơn so với các vùng lân cận.
Trong giai đoạn bao cấp, nghề dệt của làng Mẹo gặp nhiều khó khăn do thiếu nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, từ năm 1986, khi Nhà nước xóa bỏ cơ chế bao cấp và chuyển sang cơ chế thị trường, nghề dệt ở đây đã hồi sinh mạnh mẽ.
Người dân làng Mẹo vốn có truyền thống cần cù, sáng tạo và nhạy bén trong kinh doanh đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội, mở rộng sản xuất và tìm kiếm thị trường.
Ngày nay, làng Mẹo được mệnh danh là “làng tỷ phú” của tỉnh Thái Bình, thậm chí nổi tiếng khắp cả nước về sự giàu có. Từ một làng quê thuần nông với nghề dệt truyền thống, làng Mẹo đã có những bước phát triển vượt bậc.

Giữa một vùng quê thuần nông châu thổ sông Hồng, làng Mẹo, tức làng Phương La, xã xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình nổi bật với những biệt thự nguy nga, lộng lẫy theo phong cách châu Âu, bề thế như cung điện. Ảnh: Báo Dân Việt.
Bên cạnh nghề dệt truyền thống vẫn được duy trì và phát triển với các sản phẩm xuất khẩu, người dân làng Mẹo đã mạnh dạn đầu tư sang nhiều lĩnh vực khác như bia rượu (với các thương hiệu nổi tiếng như Bia Đại Việt của Tập đoàn Hương Sen), xây dựng, thủy điện, vận tải…

Sự nhạy bén trong kinh doanh đã giúp nhiều người dân trong làng trở thành tỷ phú, triệu phú.
Làng Mẹo nổi bật với những ngôi biệt thự, nhà cao tầng bề thế, không thua kém gì các khu đô thị hiện đại. Đường làng ngõ xóm được bê tông hóa sạch đẹp. Trong làng còn có cả chi nhánh ngân hàng và siêu thị lớn để phục vụ nhu cầu của người dân và các hoạt động kinh doanh.
Tại làng Mẹo đã hình thành một cụm công nghiệp với hàng trăm công ty lớn nhỏ, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động địa phương và các vùng lân cận.
Dù kinh tế phát triển, người dân làng Mẹo vẫn giữ gìn những nét đẹp văn hóa truyền thống, đặc biệt là nghề dệt. Các sản phẩm dệt của làng ngày càng đa dạng về mẫu mã và chất lượng, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Nhiều người con thành đạt của làng Mẹo đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của quê hương, như xây dựng đường xá, trường học, các công trình công cộng…
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế mạnh mẽ cũng đặt ra một số thách thức về vấn đề môi trường do hoạt động sản xuất công nghiệp và làng nghề.

Đây là một bài toán mà chính quyền địa phương và người dân làng Mẹo đang nỗ lực tìm kiếm giải pháp để phát triển bền vững.
Làng Nôm-làng cổ đẹp như phim, nổi tiếng nhất Việt Nam
Làng Nôm, tên gọi khác là làng Đại Đồng hoặc làng Đồng Cầu, thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên ngày nay. Làng Nôm là một trong những ngôi làng cổ kính và giữ được nhiều nét truyền thống đặc sắc của vùng đồng bằng Bắc bộ.
Làng Nôm được cho là có từ rất sớm, có thể từ những năm đầu Công nguyên, nhưng dân cư bắt đầu tập trung đông đúc vào khoảng cuối thế kỷ XV.
Tên gọi “Đồng Cầu” xuất phát từ chiếc cầu đá bắc qua sông Nguyệt Đức trong làng. Đến thời Nguyễn, làng được đổi tên thành làng Thông thuộc trang Đồng Xá, rồi sau này gọi là làng Đại Đồng. Tuy nhiên, tên gọi làng Nôm vẫn quen thuộc và được sử dụng rộng rãi trong dân gian.
Trong lịch sử, người dân làng Nôm nổi tiếng với nghề buôn bán đồng nát. Họ đi thu mua đồng nát ở khắp các vùng rồi mang về bán lại cho các lò đúc đồng địa phương và các vùng lân cận. Nhờ nghề này, đời sống kinh tế của người dân làng Nôm xưa khá giả hơn so với nhiều vùng quê khác.

Cổng tam quan chùa Nôm ở làng Nôm, một trong các làng cổ nổi tiếng nhất Việt Nam. Làng Nôm ở xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Việt Nam ơi!
Làng Nôm còn là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Nơi đây cũng là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người dân địa phương với nhiều công trình kiến trúc cổ kính có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao.
Ngày nay, làng Nôm vẫn giữ được những nét cổ kính, yên bình của một làng quê Bắc Bộ truyền thống, dù nằm gần khu vực phát triển công nghiệp của tỉnh Hưng Yên.
Làng Nôm tự hào lưu giữ được nhiều công trình kiến trúc cổ kính như cổng làng hơn 200 năm tuổi với những họa tiết chạm khắc tinh xảo.
Đình làng Đại Đồng (đình Nôm) thờ Đức Thánh Tam Giang; chùa Nôm (Linh Thông cổ tự) nổi tiếng với hơn 100 tượng Phật cổ bằng đất nung.
Hay cây cầu đá bắc qua sông Nguyệt Đức với chín nhịp đầu rồng chạm khắc tinh tế, và những ngôi nhà cổ rêu phong. Quần thể di tích làng Nôm đã được xếp hạng là Di tích lịch sử – kiến trúc nghệ thuật quốc gia vào năm 2020.

Người dân làng Nôm vẫn duy trì nếp sống thôn quê mộc mạc, chân thành. Các phong tục, tập quán truyền thống vẫn được bảo tồn và trao truyền qua nhiều thế hệ. Chợ Nôm, họp vào các ngày có số cuối là 1, 4, 6 và 9 âm lịch, vẫn giữ được không khí phiên chợ quê xưa với những sản vật địa phương.
Với những giá trị văn hóa và kiến trúc độc đáo, làng Nôm đang trở thành một điểm đến hấp dẫn cho du khách muốn tìm về không gian yên bình của làng quê Việt Nam xưa. Các hoạt động du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng đang được chú trọng phát triển tại đây.
Làng Nôm nằm trong khu vực có tốc độ công nghiệp hóa cao, điều này vừa mang lại cơ hội phát triển kinh tế nhưng cũng đặt ra những thách thức trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống và cảnh quan môi trường.
Chính quyền địa phương và người dân đang nỗ lực tìm kiếm sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo tồn di sản.
Nguồn: https://danviet.vn/sap-nhap-2-tinh-thai-binh-hung-yen-vung-dat-moi-co-2-lang-co-dep-nhu-phim-co-lang-ty-phu-d1325853.html